Việt
Nam đang phải đối mặt với tình trạng “ô nhiễm trắng” nghiêm trọng – cụm
từ các nhà khoa học dùng để gọi về loại ô nhiễm do túi nilon gây ra cho
môi trường. Để giảm thiểu “ô nhiễm trắng” cần nhiều giải pháp đồng bộ,
lâu dài và thay đổi thói quen của cộng đồng.
Các
nhà khoa học, nhà quản lý đã cùng thảo luận tại hội thảo khoa học về
kiểm soát ô nhiễm môi trường do sử dụng túi nilon khó phân hủy do Bộ Tài
nguyên và Môi trường phối hợp với UBND tỉnh Bình Định tổ chức sáng 4-6.
Đây
là hoạt động nằm trong khuôn khổ các chương trình hưởng ứng chủ đề
“Giải quyết ô nhiễm nhựa và nilon” của ngày Môi trường thế giới 5-6.
“Gánh nặng” đối với môi trường
Theo
thống kê chưa đầy đủ, mỗi hộ gia đình Việt Nam thường sử dụng 5-7 túi
nilon/ngày. Như vậy, trung bình mỗi ngày có hàng triệu túi nilon được sử
dụng và thải ra môi trường. Chỉ riêng 2 TP lớn là Hà Nội và TPHCM,
trung bình 1 ngày thải ra từ 4.000 – 5.000 tấn rác, trong đó rác thải
nilon chiếm 7-8%.
Theo
nghiên cứu của các nhà khoa học, tác hại nguy hiểm nhất của túi nilon
tới môi trường chính là tính chất rất khó phân hủy trong điều kiện tự
nhiên. Chiếc túi nilon nhỏ bé nhưng lại có quá trình phân hủy kéo dài từ
500-1.000 năm nếu không bị tác động bởi ánh nắng mặt trời. Đây chính là
gánh nặng của môi trường dẫn đến thảm họa “ô nhiễm trắng”.
Theo
Vụ Quản lý chất thải, Tổng cục Môi trường, tỷ lệ thu gom chất thải rắn
sinh hoạt (trong đó có chất thải nhựa và túi nilon) chưa đạt được yêu
cầu so với mục tiêu đề ra. Tại khu vực nội thành của các đô thị trung
bình đạt khoảng 85% và tại khu vực nông thôn là 55%.
Vấn
đề quản lý chất thải từ túi nilon gặp nhiều khó khăn do nhận thức của
người dân trong thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý chất thải rắn
sinh hoạt, đặc biệt và chất thải nhựa và túi nilon còn nhiều hạn chế,
thói quen sử dụng túi nilon còn khá phổ biến. Do túi nilon thân thiện
với môi trường có giá thành cao nên người dân vẫn sử dụng túi nilon
truyền thống.
Bên
cạnh đó, chất thải rắn sinh hoạt được giao từng phân đoạn quản lý cho
các Bộ, ngành, địa phương cùng tham gia quản lý nên vẫn còn có sự bất
cập, chưa thống nhất và đồng bộ trong quản lý chất thải từ Trung ương
tới địa phương. Cơ chế thúc đẩy xã hội hóa trong công tác thu gom, xử lý
chất thải rắn sinh hoạt cũng còn thiếu và chưa thu hút được các nguồn
lực đầu tư cho thu gom, xử lý chất thải rắn; hoạt động thu gom, vận
chuyển và xử lý tại khu vực nông thôn mang tính chất cộng đồng nên chưa
thúc đẩy được tính chuyên nghiệp cả các tổ dịch vụ, hợp tác xã và công
ty dịch vụ môi trường.
Mặt
khác, việc huy động nguồn lực đầu tư xây dựng khu xử lý chất thải rắn
cũng còn gặp nhiều khó khăn. Tại một số địa phương, đặc biệt là các đô
thị lớn đã có dự án đầu tư về xử lý chất thải rắn sinh hoạt của các tổ
chức, cá nhân. Tuy nhiên, việc triển khai các dự án này còn chậm, thủ
tục phức tạp và kéo dài, việc tính toán cơ chế thu hồi vốn đối với các
dự án này cũng rất khó khăn.
Áp dụng đồng bộ và lâu dài các giải pháp
Theo
TS Nguyễn Văn Hồng, Phân viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi
khí hậu, cần áp dụng đồng bộ và lâu dài các giải pháp quản lý, các giải
pháp kinh tế, các giải pháp khuyến khích và tuyên truyền cả ngắn hạn và
dài hạn. Cụ thể: không phát không túi nilon tại các siêu thị, trung tâm
thương mại trên địa bàn các thành phô, người tiêu dùng muốn mua phải trả
giá cao; hạn chế sản xuất, mua bán và phân phối túi nilon tại các địa
phương; tính phí thu gom và tái chế túi nilon cho người sản xuất, không
được chuyển phí sang người tiêu dùng thông qua giá thành sản phẩm.
Đồng
tình với quan điểm này, bà Dương Thị Phương Anh, Viện Chiến lược, Chính
sách tài nguyên và môi trường, Bộ TN&MT cho rằng, việc thu thuế bảo
vệ môi trường đối với túi nilon cũng đã cải thiện được ý thức của nhà
sản xuất trong việc hạn chế sử dụng nguyên liệu khó phân hủy để sản xuất
túi nilon. Mặc dù túi nilon thân thiện với môi trường được miễn thuế
bảo vệ môi trường nhưng do nhiều hộ gia đình quy mô nhỏ sản xuất túi
nilon khó phân hủy và không phải nộp thuế theo thực tế sản xuất nên đã
kéo giá thành túi nilon thông thường thấp hơn. Như vậy, túi nilon thân
thiện với môi trường không có khả năng cạnh tranh với túi nilon thông
thường, dẫn đến chính sách hỗ trợ của Nhà nước kém hiệu quả.
Thực
tế, ngoài chính sách và hỗ trợ của Nhà nước, để giảm thiểu “ô nhiễm
trắng” phụ thuộc rất lớn vào ý thức của người dân. Tại một số địa phương
đã giảm thiểu sử dụng túi nilon hiệu quả nhờ những mô hình, phong trào
cụ thể. Ví dụ, từ năm 2009 lãnh đạo TP Hội An và người dân trên đảo Cù
Lao Chàm đã bắt đầu thực hiện chương trình “Nói không với túi nilon”.
Mỗi hộ dân được phát 2 giỏ nhựa và hướng đến thói quen sử dụng “túi sinh
thái”. Các chương trình truyền thông cũng được tổ chức với những câu
slogan độc đáo như: “Xách giỏ đi chợ, phong cách của người nội trợ";
“Không túi nilon, bảo vệ môi trường” được treo trên đường làng, ở cầu
cảng đón khách du lịch.
Theo
Phó chủ tịch UBND xã Tân Hiệp, TP Hội An Phạm Thị Mỹ Hương, chương
trình đã đạt được hiệu quả tốt nhờ sự triển khai đồng bộ của cả hệ thống
chính trị, sự đồng thuận của người dân và sự chung tay của các doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố, địa bàn triển khai cũng phân theo từng
khu cụm nhỏ để dễ quản lý, vận động.
Hiện
tại, các chính sách để giảm thiểu ô nhiễm chất thải rắn, trong đó có
túi nilon đang dần được hoàn thiện. Mới đây, đã có Quyết định số
491/QĐ-TTg ngày 7-5-2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh
Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm
nhìn đến năm 2050, trong đó yêu cầu mục tiêu cụ thể đối với chất thải
rắn sinh hoạt đô thị. Cụ thể: tất cả các đô thị loại đặc biệt và loại I
có công trình tái chế chất thải rắn phù hợp với việc phân loại tại hộ
gia đình; 85% các đô thị còn lại có công trình tái chế chất thải rắn phù
hợp với việc phân loại tại hộ gia đình, tăng khả năng tái chế, tái sử
dụng, xử lý kết hợp thu hồi năng lượng. Sử dụng 100% túi thân thiện với
môi trường tại các trung tâm thương mại, siêu thị phục vụ cho mục đích
sinh hoạt thay thế cho túi nilon khó phân hủy.
Theo chinhphu.vn